Tác phẩm của Huỳnh Thúc Kháng (phần 1)

HUỲNH THÚC KHÁNG THI TÙ TÙNG THOẠI

Ngày 15-8-1911, gần 100 năm trước, tại nhà ngục Côn Đảo của thực dân Pháp đã xảy ra một sự kiện hiếm có: Tù quốc sự là các nhà khoa bảng đã tổ chức một cuộc vịnh thơ lấy đề là “Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn” (Ngày này năm trước đến Côn Lôn) để kỷ niệm tròn ba năm ngày bị  đày với án “lưu biệt xứ; ngộ xá bất nguyên” (lưu đày vĩnh viễn khỏi xứ; gặp dịp ân xá cũng không được tha). Chuyện làm thơ hy hữu ấy cùng nhiều chuyện khác trong tù đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng ghi lại  trong tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.

Cụ Huỳnh đề tựa cho cuốn “sử tù” của mình như sau: “Bản này là ký giả chép góp thi (thơ) và chuyện của một ít bạn chính trị phạm đồng tội trong thời gian 13 năm bị đày ở Côn Đảo (Poulo Condore) mà ký giả là một người trong đồng bọn ấy, tai nghe mắt thấy toàn là chuyện thật khởi đầu năm 1908 đến năm 1921”. (Mính Viên, Thi tù tùng thoại, NXB Nam Cường, Sài Gòn, tháng 10-1951, tr.7).

Cuốn sử ấy bắt đầu bằng bài thơ của cụ Phan Châu Trinh ứng khẩu trên đường bị giải ra đảo: “Luy luy già tỏa xuất đô môn/ Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn/ Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy/ Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn”. Cụ Huỳnh dịch: “Xiềng gông cà kệ biệt Đô môn/ Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn/ Đất nước đắm chìm nòi giống mỏn/Thân trai nào sợ cái Côn Lôn” ( Sđd, tr.12; từ đây trở đi, chỉ ghi các câu thơ dịch của cụ Huỳnh – NV).

Nhưng, theo cụ Huỳnh thì cụ Ngô Đức Kế mới là người làm thơ tù đầu tiên. Năm 1907, một năm trước ngày bị giải ra Côn Lôn, tại nhà ngục Hà Tĩnh, cụ nghè Ngô đã viết “Ham học văn minh đà mấy lúc/ Mão tù đâu khéo cấp cho ông?” (sđd tr.13)
Người thứ ba được nhắc đến là cụ nghè Trần Quý Cáp. Nghe tin cụ Trần bị xử chém ở Khánh Hòa, nhớ lại lúc chia tay ở Tourane, cụ Huỳnh khóc mấy vần thảm thiết “Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng/ Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng/ Chia tay chén rượu còn đương nóng/ Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền” (tr.17).

Nhờ cuốn sử tù của cụ Huỳnh Thúc Kháng, người đời sau biết được diễn tiến cái chết bi tráng ngoài đảo của cụ Tiểu La Nguyễn Thành, của ông tú tài làng Chiên Đàn (Tam Kỳ) là Dương Thạc, của ông hương chức làng Hà Lam (Thăng Bình) là Nguyễn Quần cùng nhiều vị khác.

Bị đày ra Côn Lôn cùng cụ Huỳnh chuyến ấy, ngoài các đồng hương như các cụ Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh, Lê Bá Huy, Nguyễn Cảnh, còn có các văn thân, sĩ dân Nghệ Tĩnh, Bình Định, Quảng Ngãi: “Kể cả thân sĩ cùng dân mấy tỉnh cùng đày đi chuyến tàu ấy là 27 người. Mà văn hào chiếm gần 20 người. Cái họa khoa giáp cùng mạt kiếp Hán học rõ là một đoạn thảm kịch trên sử Hồng Bàng xưa nay chưa từng có!”(tr.33).

Các người tù có chữ nghĩa đó, cùng với các văn thân bị đày ra các năm sau, được bọn cai ngục gọi chung là “tù quan to” và bị đối xử một cách “đặc biệt”. Cụ Huỳnh kể một câu chuyện cười ra nước mắt: “Một ngày nọ, có một chú ma tà nhỏ tuổi coi xâu đập đá thấy “tụi quan to” đập đá ươn quá, tay cầm cây roi mây đi tự đầu này đến đầu kia hỏi từng người: Mày cái gì? – Bẩm cử nhân. Chú cho một roi”. Rồi cụ cho biết lúc chú lính gặp một người mà “khi bẩm có bộ cười, chú ta cũng cho một roi khá đau và bảo: “Mày ăn nói vô lễ, cho một roi từ này về sau biết tay tao!” Rồi ấm sanh, tú tài đều được ngọn roi ấy, duy có người xưng chánh tổng được khỏi roi” (tr.48).

Cụ Huỳnh còn ghi lại nhiều chuyện rất sinh động như cuộc đối đáp giữa cụ Phan Châu Trinh và viên thống soái Sài Gòn đại diện phái bộ Pháp ra Côn Lôn điều tra về hành tung của cụ Phan trong quá khứ (tr.104-107); hoặc như chuyện vượt ngục Côn Lôn bằng bè về đất liền rồi bị bắt trở lại của các ông Cửu Cai, Hy Cao và Kim Đài (tr.213-222). Câu chuyện vượt ngục ly kỳ của các ông này cùng rất nhiều chuyện về sinh hoạt của người tù trong nhà ngục Côn Lôn thời Pháp thuộc có thể giúp cho các nhà làm phim thời nay tái hiện một cách sinh động bộ mặt của chốn “địa ngục trần gian” giữa biển khơi vào đầu thế kỷ XX này.

Cụ Huỳnh ghi lại “Thi tù tùng thoại” bằng trí nhớ; bởi trong tù, bọn thực dân cấm viết chữ Tây, chữ quốc ngữ mà chỉ cho viết bằng chữ Hán; đến khi ra tù thì mọi tài liệu chữ Hán – kể cả bản gốc “Thi tù tùng thoại” – chúng đều tịch thu. Vì thế, theo cụ, tất cả trứ tác của tù nhân đã đều “mất tích đáng tiếc” (tr.271). Bản “thi tù” hiện lưu hành là bản được cụ Huỳnh nhớ lại và dịch ra quốc ngữ. Xin giới thiệu trích lời mở đầu và một số bài thơ Tết ở Côn Lôn, Bảy mươi tuổi tự thọ, và các tác giả khác được trích từ tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.

(Trích)

I. Lời mở đầu

"Thi có cùng mà sau mới hay “tin như lời nói xưa, thì trên đời mà gọi là “cùng” không chi cùng hơn cảnh tù, đáng lẻ thơ của kẻ tù, lưu truyền khá nhiều mới phải vậy mà xét trên lịch sử phương đông, trên dưới ngàn năm, duy có mấy bài của Lý Bạch lúc dày có Gia Lạng, bài “ở trong ngục vịnh con ve”của Lạc Tân Vương (1) bài “chính khi ca “ của Văn Thiên Tường(2), bài thi “Vịnh lúc gần hành chính” của Dương Kế Thạnh (3) cùng ở nước ta thì bài trần tình của Cao Ba Nhạ, tờ khai của Đoàn Trưng…. Còn có truyền lại, ngoài ra không thấy thi văn tù bao nhiêu.

Trái lại, những lối uống rượu ngắm hoa, trông trăng thưởng gió, cùng lối thi ứng thú tiêu khiển của bọn văn sĩ phong lưu, thôi thì đầy kho chật tủ, làm họa cho bàn in không biết là bao!

Trên thi sử xưa nay, thừa bên này mà thiếu bên kia, nghĩa là thi phong lưu nhiều mà thi tù ít, là vì lẽ gì ? không phải trái với cái thuyết “cùng mới hay” kia sao?

Như nói trong đám tù tội không có bọn văn nhân thì ngục Đảng có nhà Hán, ngục Thanh lưu đời đường, án Ngụy học đòi Tống, án Đông Lâm Phục Xá đời Minh, bọn văn hào thi bá mấy đời co tay bó chân làm bạn với gông cùm xiềng bộng, cúi đầu nín tiếng, ngồi than thở cái oai quyền vô thượng của bọn ngục quan và lính gác ngục, trước sau nối gót, biết bao nhiêu người ! Ai bảo rằng trong đám tù không có hạng văn hào thi bá ở phương Đông về thời đại quân chủ chuyên chế, tù là tội cả, không có hạng tù quốc sự (chánh trị phạm) như phương tây. Bởi thế nên đã vào tù, vô luận nhân cách lưu phẩm thế nào, người đời đều xem như vật ghê gớm đáng sợ, đã là vật đáng sợ trong xã hội, tự nhiên cái người đã mang cái huy hiệu “tù”. Công chúng đều tránh xa, với người đó còn không  dám lại gần, huống chi thi với văn, dù có nghe thấy thi văn của họ, không dùng dậy hũ tương thì phú cho ngọn lữa. Thi kẻ tù ít truyền là vì thế.

Âu triều truyền sang, phong khí đổi mới, chế độ về thời đại chuyên chế bị triều lưu văn minh dội quét gần tàn, trên sử tấn hóa của loài người, trong đám tù tội có cái tên gọi là “tù quốc sự” khác với hạng tù thường, không những xã hội không bài xích như ngày xưa, mà trong có hạng chí sĩ chân nhân, trở được người tỏ lòng sùng bái và khen ngợi, từ đó mà thi tù mới truyền.

Ở Âu Mỹ không nói, nói riêng về phương đông như sử duy Tân khẳng khái của Nhật Bản, cách mạng -  sử của Trung Hoa sau cuộc Mậu Tuất chánh biến, ở trong có nhiều chi của bọn tù, không sao kể hết. Nước ta sau cuộc dân biến năm 1908 về sau có nhiều thi của bọn tù, chính là theo lệ chung đời mới nói trên.

Chuẩn theo lẽ ấy, tức gọi rằng thi tù mở một cái màn mới trong văn giới cùng đi với công lệ tấn hóa cũng không phải là quá đáng. Độc giả để ý xem
                                                                                                                                                 Minh Viên
                                                                                                                                            Huỳnh Thúc Kháng

Cổng TTĐT thành phố

ĐÁNH GIÁ BÀI VIẾT