Phòng, chống bệnh viêm gan vi rút trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2023-2025
Đăng ngày 21-09-2023 11:23, Lượt xem: 129

Ngày 18-9, UBND thành phố ban hành văn bản số 178/KH-UBND triển khai kế hoạch Phòng, chống bệnh viêm gan vi rút trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2023-2025.

Theo báo cáo của WHO năm 2021, có khoảng 296 triệu người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính và 58 triệu người nhiễm vi rút viêm gan C mạn tính trên toàn cầu. Ước tính mỗi năm có 3 triệu ca nhiễm mới viêm gan B và viêm gan C. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 1,1 triệu trường hợp tử vong có liên quan đến bệnh viêm gan vi rút trong đó có 96% là do viêm gan B và viêm gan C mà nguyên nhân chủ yếu là do ung thư biểu mô tế bào gan và xơ gan.

Theo kết quả điều tra gánh nặng bệnh tật toàn cầu năm 2010, nguyên nhân tử vong có liên quan đến viêm gan vi rút đứng hàng thứ 3 trong số các nguyên nhân do bệnh truyền nhiễm gây ra. Ngoài ra, viêm gan cấp tính do vi rút viêm gan A và E cũng góp phần vào tỷ lệ tử vong do viêm gan vi rút với số ca tử vong mỗi năm lần lượt là 14.900 và 52.100 trường hợp.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B và vi rút viêm gan C cao trong quần thể dân cư nói chung và có gánh nặng bệnh tật cao liên quan đến viêm gan B và C.

Theo kết quả mô hình ước tính gánh nặng bệnh tật do vi rút viêm gan B và C được Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện năm 2017, ước tính có khoảng 7,8 triệu người nhiễm vi rút viêm gan B mãn tính và khoảng gần 1 triệu người nhiễm vi rút viêm gan C mãn tính.

Đây là nguyên nhân dẫn đến khoảng 80.000 trường hợp xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan và khoảng 40.000 trường hợp tử vong hàng năm và có xu hướng tiếp tục gia tăng.

Theo kết quả giám sát dịch tễ học huyết thanh vi rút viêm gan B và vi rút viêm gan C trong nhóm người trưởng thành tại thành phố Đà Nẵng năm 2018 – 2019 cho thấy, tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính (anti-HBc total dương tính và HBsAg dương tính) trên địa bàn thành phố là 12,8% (cao hơn so với tỷ lệ trung bình của cả nước: 9,2%), tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan C mạn tính (anti-HCV dương tính và HCV core Antigen dương tính) là 0,7% (thấp hơn so với tỷ lệ trung bình của cả nước: 1,0%).

Theo thống kê của Sở Y tế, trung bình mỗi ngày có khoảng 1.200 bệnh nhân khám các bệnh về gan tại các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố, trong đó khám, xét nghiệm viêm gan khoảng 900 trường hợp (xét nghiệm vi rút viêm gan B chiếm khoảng 70%, vi rút viêm gan C chiếm khoảng 14%).

Năm 2022, tỷ lệ tiêm chủng vắc xin viêm gan B cho trẻ em sơ sinh trong 24 giờ đầu đạt 90,12%, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm vắc xin viêm gan B ba liều cơ bản (VGB3) đạt 99%.

UBND thành phố yêu cầu Sở Y tế phối hợp với các sở, ban, ngành, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội liên quan trên địa bàn triển khai các hoạt động phòng chống viêm gan vi rút đến các đơn vị thành viên và vận động người dân tham gia.

Hướng dẫn UBND các quận, huyện tổ chức triển khai kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị trong việc tổ chức triển khai các hoạt động phòng chống viêm gan vi rút tại địa phương, có thể lồng ghép trong kế hoạch phòng, chống dịch bệnh hằng năm.

Tăng cường công tác phối hợp với ngành giáo dục và đào tạo thực hiện truyền thông phòng, chống bệnh viêm gan vi rút tại các điểm trường học.

Ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể các nội dung, hoạt động của ngành y tế. Chỉ đạo các đơn vị y tế mở rộng dịch vụ xét nghiệm vi rút viêm gan, lồng ghép hoạt động xét nghiệm với các hoạt động truyền thông, tư vấn; đảm bảo các quy định hiện hành về xét nghiệm, tài chính, trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm.

Tăng cường triển khai tiêm vắc xin viêm gan B cho trẻ em tại các điểm tiêm chủng và trẻ sơ sinh tại các cơ sở y tế có phòng sinh đạt tỷ lệ tiêm chủng vắc xin viêm gan B đạt thấp.

Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện nghiêm túc các quy trình chuẩn về phòng nhiễm khuẩn trong cơ sở y tế; thực hiện tốt việc khám sàng lọc để phát hiện sớm các trường hợp nhiễm viêm gan vi rút và điều trị, quản lý kịp thời hạn chế biến chứng.

Các cơ sở y tế có phòng sinh, phòng tiêm chủng thực hiện việc nhập thông tin tất cả các trẻ sơ sinh trên hệ thống quản lý thông tin tiêm chủng của Bộ Y tế.

Các đơn vị chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn thành phố thực hiện các hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế, các Viện, Bệnh viện tuyến trung ương. Tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho các cán bộ y tế các tuyến về xét nghiệm, chẩn đoán, điều trị, quản lý bệnh viêm gan vi rút.

Chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị y tế triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, cung cấp thông tin, bằng chứng cho xây dựng chính sách về chương trình phòng chống viêm gan vi rút trên địa bàn thành phố.

Nâng cấp và chuẩn hóa các quy trình, trang thiết bị xét nghiệm vi rút viêm gan để áp dụng các kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán vi rút học đặc biệt đối với vi rút viêm gan B, vi rút viêm gan C phục vụ việc chẩn đoán và điều trị bệnh viêm gan vi rút và các bệnh truyền nhiễm khác một cách hiệu quả tại bệnh viện và hỗ trợ các địa phương.

Phối hợp, cung cấp thông tin chuyên môn đối với các cơ quan truyền thông để tuyên truyền, hướng dẫn người dân nâng cao nhận thức, kỹ năng thực hiện các biện pháp phòng chống bệnh viêm gan vi rút, khả năng chăm sóc, quản lý sức khỏe bản thân và người thân khi mắc bệnh.

Sở Thông tin và Truyền thông định hướng các cơ quan báo chí truyền thông của thành phố, chỉ đạo hệ thống thông tin cơ sở đăng tải các tin, bài tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú và đa dạng về các hoạt động phòng chống bệnh viêm gan vi rút.

Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Sở Y tế triển khai các hoạt động tuyên truyền về lợi ích, ý nghĩa của tiêm chủng vắc xin phòng viêm gan và phòng, chống bệnh viêm gan vi rút trong ngành giáo dục.

Bảo hiểm xã hội thành phố chỉ đạo cơ quan Bảo hiểm xã hội quận, huyện phối hợp với cơ sở y tế thực hiện chính sách chi trả bảo hiểm y tế trong chẩn đoán và điều trị bệnh viêm gan vi rút theo đúng quy định.

Ủy ban nhân dân các quận, huyện xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch phòng chống bệnh viêm gan vi rút của quận, huyện phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương; bố trí kinh phí triển khai thực hiện kế hoạch. Định kỳ 6 tháng, năm, các đơn vị báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch về Sở Y tế để tổng hợp báo cáo UBND thành phố và Bộ Y tế theo quy định.

THUỲ LINH

ĐÁNH GIÁ BÀI VIẾT

Các tin khác