Khu nghĩ dưỡng Bà Nà

Núi cao 1.487m so với mặt nước biển, được hình thành trên các loại đá cứng như granit, permatit và đá bazan biến chất. Trên các triền núi phủ đất đỏ và xám là những rừng cây với nhiều loại gỗ quý như kiền kiền, chò chỉ, gõ đỏ, sến, mây, song, phong lan, dương xỉ. Ở độ cao trên 1.000m có nhiều thông mọc. Các cuộc điều tra ở đây cho biết về thực vật có 136 họ, 379 chi và hơn 453 loài, có 251 cây thuốc; về động vật có 266 loài thuộc 3 lớp động vật có xương sống, có 61 loài thú, 178 loài chim, 17 loài bò sát. Diện tích toàn khu núi Bà Nà là 8.425ha, rừng tự nhiên chiếm 6.056ha.
Điều làm nên giá trị tự nhiên của núi Bà Nà là ở chỗ trên đỉnh cao nhất lại bằng phẳng như một cao nguyên nhỏ, khí hậu mát quanh năm, nhiệt độ trung bình 18,3oC, cao nhất cũng chỉ đến 25oC. Điều kỳ thú ở đây là vào mùa hè khi ở đồng bằng nhiệt độ lên tới 32o-35o thì ở đỉnh Bà Nà chỉ có 17o-20o. Khí hậu trong ngày có cả 4 mùa: sáng xuân, trưa hạ, chiều thu, tối đông. Đặc biệt, đứng từ trên đỉnh có thể quan sát cảnh mưa rơi xung quanh sườn núi bên dưới, như có cảm giác đứng giữa mưa mà vẫn khô ráo như thường.

Theo tài liệu lưu trữ, khu nghỉ dưỡng Bà Nà do người Pháp phát hiện vào năm 1898 và cho đến những năm 30 của thế kỷ trước, chính quyền thực dân đã cho xây dựng ở đây hơn 250 ngôi biệt thự và những khách sạn, bệnh xá, nhà băng, nhà bưu điện, trạm thuế, nhà trẻ… với nhiều dạng kiến trúc khác nhau để làm nơi nghỉ dưỡng cho quan chức, sĩ quan, nhân viên cao cấp của Pháp. Ngày xưa, ôtô chưa thể chạy đến đỉnh đèo ở độ dốc từ 25-30o, mà chỉ dừng ở chân đèo, rồi đi bằng kiệu, cáng do phu người Việt khiêng. Ngày nay cùng với đường ôtô chạy tới đỉnh, lại có cả hệ thống cáp treo đạt hai kỷ lục thế giới (cáp treo một dây dài nhất 15.042 mét và có độ cao chênh lệch 1.291 mét). Chỉ cần đến ga cáp treo Suối Mơ, rồi lên ngồi trong cabin cáp treo, sau 17 phút là có thể bước vào một vùng khí hậu ôn đới, trong lành, giữa một khung cảnh thiên nhiên vô cùng thơ mộng. Cái độc đáo của Bà Nà là một khu du lịch, nghỉ dưỡng nằm ngay trong địa phận thành phố lớn Đà Nẵng, lại cách biển chỉ 15km.
Đình Nại Nam
Đình làng Nại Nam nay ở khối phố Nam Sơn, phường Hòa Cường, quận Hải Châu. Đình được xây dựng năm ất Tỵ (1905) từ công sức đóng góp của dân địa phương, thờ Thành hoàng bảo an chính trực, bổn xứ thổ thần và các vị tiền nhân của làng.
Di tích Đà Nẵng - những trang sử tuyệt đẹp
Như bao địa phương khác, Đà Nẵng đã trải qua bao thăng trầm trên con đường phát triển của mình. Những di tích còn lại là chứng tích cho một quá khứ vươn lên kiên cường, không mệt mỏi của mảnh đất này.
Vết tích những nấm mồ quân xâm lược ở Đà Nẵng giữa thế ký XIX hiện còn lưu lại
Những phát đại bác đầu tiên của liên quân Pháp - Tây Ban Nha bắn vào các pháo đài phòng thủ của quân Việt Nam ở Đà Nẵng vào sáng ngày 1-9-1858, mở đầu cuộc xâm chiếm nước ta. Bọn xâm lược đã gặp phải sức kháng cự quyết liệt của quân và dân ta. Cho đến hết năm 1858, chúng vẫn không sao thực hiện được mục đích mở rộng địa bàn chiếm đóng, phá vỡ thế phòng thủ của ta, nhằm tạo một bước ngoặt cho cuộc chiến tranh. Tướng chỉ huy quân liên quân lúc bấy giờ là Đô đốc Rigault de Genouilly bèn quyết định chuyển hướng tiến công vào Gia Định. Đầu tháng 2-1859, chúng chỉ để lại ở Đà Nẵng một đại đội lính và vài chiến hạm, số quân còn lại được chuyển vào đánh chiếm Gia Định.
Trận đánh Pháp đầu tiên trên đèo Hải Vân (28-2-1886)
Theo lệnh của De Courcy, Tổng tư lệnh binh đoàn viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tướng Prud’homme đóng tại Huế đã cấp tốc điều động đội công binh mở nhanh con đường chiến lược Huế – Đà Nẵng, mà đặc biệt là đoạn đường qua đèo Hải Vân.
Thành Điện Hải
Thành Điện Hải trước là đồn Điện Hải, xây dựng năm 1813 (Gia Long thứ 12) gần cửa biển Đà Nẵng. Năm 1823 (Minh Mạng thứ 4) cho dời đồn Điện Hải vào bên trong đất liền, trên một gò đất cao. Đồn được xây bằng gạch.


Chưa có bình luận ý kiến bài viết!