Kết quả giải quyết đơn khiếu nại của ông Đỗ Tấn Phát
UBND thành phố vừa ban hành quyết định về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Đỗ Tấn Phát, trú tại tổ 16, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, với nội dung như sau:

Xét đơn khiếu nại của ông Đỗ Tấn Phát, trú tại tổ 16, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đối với Quyết định số 2687/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 của Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ; xét Báo cáo số 62/BC-TTTP ngày 06 tháng 02 năm 2013, Tờ trình số 325/TTr-TTTP ngày 06 tháng 5 năm 2013 của Thanh tra thành phố và Báo cáo số 116/BC-STNMT ngày 12 tháng 3 năm 2013 của Sở Tài nguyên và Môi trường về kết quả thẩm tra, xác minh đơn khiếu nại của ông Đỗ Tấn Phát, nhận thấy:

1. Về khiếu nại Quyết định thu hồi đất số 1061/QĐ-UBND ngày 24/7/2012 của UBND quận Cẩm Lệ không ghi loại đất thu hồi là không đúng, vì, Điều 53 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 đã bị bãi bỏ bởi Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ “ về Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư”.Theo đó, trong Quyết định thu hồi đất không bắt buộc phải ghi loại đất thu hồi.

2. Về việc ông Phát đề nghị ban hành quyết định thu hồi đất riêng đối với các trường hợp ông Phát, bà Cơ tự  chuyển nhượng cho ông Dũ, ông Lực, ông Huy là không có cơ sở xem xét, giải quyết, vì các “Giấy thỏa thuận cho đất làm nhà ở” của ông Phát và bà Cơ nêu trên không đúng thủ tục hành chính trong việc tặng, cho quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 146, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ (bên nhận tặng cho quyền sử dụng đất không ký tên vào văn bản cho nhận, không đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, không đủ căn cứ tách thửa).

3. Về khiếu nại Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 29/8/2012 V/v phê duyệt tính pháp lý về nhà, đất, vật kiến trúc, cây cối hoa màu… cho 04 hộ giải tỏa dự án Khu D - Khu dân cư Nam cầu Cẩm Lệ, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”phần phê duyệt đối với hộ ông:

a) Việc ông Phát yêu cầu được bồi thường 100% giá trị đất ở đối với diện tích đất 767,3m2 là không có cơ sở để xem xét, giải quyết, vì hộ ông kê khai theo Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ diện tích 725m2 tại thửa đất số 784, tờ bản đồ số 02, được UBND huyện Hòa Vang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/7/1994 tại thửa đất số 784, tờ bản đồ số 02, diện tích 725m2 đất thổ cư. Diện tích đất đo đạc thực tế tại thời điểm giải tỏa là 767,3m2, phần diện tích đất 42,3m2 vượt so với diện tích đất được UBND huyện Hòa Vang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể xem là diện tích tự mở rộng.
Do đó, căn cứ Điều 6, Điều 20 Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ban hành kèm theo Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố, thì việc UBND quận Cẩm Lệ phê duyệt tính pháp lý về nhà đất vật kiến trúc, cây cối hoa màu… cho hộ ông Phát tại Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 29/8/2012, trong đó: bồi thường 100% giá trị đất ở cho diện tích đất 725m2 (diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), hỗ trợ 100% giá trị đất ở cho diện tích đất 42,3m2 (ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là đúng với quy định.

b) Việc Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ ban hành Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 29/8/2012 “V/v phê duyệt tính pháp lý về nhà, đất, vật kiến trúc, cây cối hoa màu… cho 04 hộ giải tỏa dự án Khu D - Khu dân cư Nam cầu Cẩm Lệ, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”, trong đó đã phê duyệt giải quyết về bồi thường thiệt hại do thu hồi đất của hộ ông là có căn cứ và đúng thẩm quyền theo quy định tại:
- Khoản 1 Điều 8 Quyết định số 47/2006/QĐ-UBND ngày 18/5/2006 của UBND thành phố: “1. Việc xét tính pháp lý về nhà, đất được thực hiện theo đúng quy định hiện hành của UBND thành phố. Hội đồng GPMB chịu trách nhiệm xét tính pháp lý về nhà, đất, xác định loại đất, hạng đất, vị trí, hệ số của diện tích đất thu hồi của từng trường hợp riêng biệt trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để làm cơ sở cho Ban GTĐB tính giá trị bồi thường, hỗ trợ”.
- Khoản 6 Điều 8 Quyết định số 47/2006/QĐ-UBND ngày 18/5/2006 của UBND thành phố: “Văn phòng UBND quận, huyện có trách nhiệm trình Chủ tịch UBND cùng cấp ký phê duyệt kết quả xét tính pháp lý về nhà, đất trong thời gian không quá 03 ngày, kể từ ngày Hội đồng GPMB trình kết quả đề nghị phê duyệt”
- Khoản 1 Điều 30 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ: “Nội dung phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư gồm:

a) Tên, địa chỉ của người bị thu hồi đất;

b) Diện tích, loại đất, vị trí, nguồn gốc của đất bị thu hồi; số lượng, khối lượng, tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của tài sản bị thiệt hại;

c) Các căn cứ tính toán số tiền bồi thường, hỗ trợ như giá đất tính bồi thường, giá nhà, công trình tính bồi thường, số nhân khẩu, số lao động trong độ tuổi, số lượng người được hưởng trợ cấp xã hội;

d) Số tiền bồi thường, hỗ trợ;

đ) Việc bố trí tái định cư;

e) Việc di dời các công trình của Nhà nước, của tổ chức, của cơ sở tôn giáo, của cộng đồng dân cư;

g) Việc di dời mồ mả.
- Điểm b, Khoản 2, Điều 31 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ: “Phòng Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản này”.
Do đó, việc ông Phát cho rằng theo quy định của pháp luật không có điều khoản nào quy định cho phép Chủ tịch UBND quận, huyện phê duyệt tính pháp lý về nhà, đất…mà phải ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi là không đúng.

4. Việc ông Phát cho rằng UBND quận Cẩm Lệ không căn cứ Quyết định số 35/2009/QĐ-UBND và Quyết định số 36/2009/QĐ-UBND ngày 24/12/2009 của UBND thành phố khi xét tính pháp lý, phê duyệt mức bồi thường nhà, đất của ông là không đúng, vì, dự án Khu D - Khu dân cư Nam cầu Cẩm Lệ được thực hiện từ năm 2008, UBND thành phố đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và bố trí tái định cư tại Quyết định số 5034/QĐ-UBND ngày 24/6/2008. Theo đó, tại Khoản 1, Mục II, Phần I quy định: Dự án này được áp dụng các văn bản sau:
- Quyết định số 70/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố Đà Nẵng V/v ban hành Quy định giá các loại đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố Đà Nẵng V/v ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Ngoài ra, theo Điều 62 Quyết định số 36/2009/QĐ-UBND ngày 24/12/2009 của UBND thành phố Đà Nẵng (có hiệu lực từ ngày 04/01/2010) quy định: Các dự án đang thực hiện dở dang trước ngày Quyết định này có hiệu lực thì tiếp tục thực hiện theo Quyết định đã phê duyệt của UBND thành phố. Do vậy, việc UBND quận Cẩm Lệ căn cứ Quyết định số 70/2007/QĐ-UBND và Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố để phê duyệt tính pháp lý và mức bồi thường thiệt hại do thu đất đối với hộ ông là đúng quy định.

Khẳng định Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ ban hành Quyết định số 2687/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 giải quyết đơn khiếu nại của ông là đúng quy định.

Từ kết quả xác minh trên và theo đề nghị của Chánh Thanh tra thành phố và Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND thành phố không chấp nhận đơn của ông Đỗ Tấn Phát khiếu nại Quyết định số 2687/QĐ-UBND ngày 07 tháng 12 năm 2012 của Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ về giải quyết đơn khiếu nại của ông Đỗ Tấn Phát, trú tại tổ 16, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

Nếu không đồng ý với Quyết định này thì ông Đỗ Tấn Phát được quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố theo quy định của pháp luật.

Cổng Thông tin điện tử thành phố

ĐÁNH GIÁ BÀI VIẾT