Nội dung khiếu nại gồm: yêu cầu bồi thường thiệt hại về đất và bố trí đất tái định cư riêng cho từng hộ nhận chuyển nhượng đất của gia đình ông, yêu cầu bồi thường theo giá đất ở cho diện tích 300m2, phần diện tích còn lại bồi thường theo giá đất khuôn viên. Yêu cầu bồi thường đủ cây cối hoa màu tại mục D của Bảng tính giá trị đền bù ngày 02/12/2013 không được trừ phần cây vượt mật độ số tiền 25.248.200 đồng và yêu cầu giải quyết hỗ trợ di chuyển nhà ở, hỗ trợ đời sống, điện, nước với mức 100%.
Kết quả xác minh nội dung khiếu nại cụ thể như sau: Để thực hiện Dự án Khu dân cư phía Nam đường Bùi Tá Hán, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn; ngày 18/11/2013, UBND quận Ngũ Hành Sơn ban hành Quyết định số 2474/QĐ-UBND V/v thu hồi một phần diện tích 983,6m2 đất (đã điều chỉnh lại diện tích đất thu hồi trước đây) do hộ ông Phạm Ngọc Anh và bà Trần Thị Mai đang sử dụng tại thửa đất số 96, tờ bản đồ số 59 phường Khuê Mỹ để giao cho Công ty Quản lý và Khai thác đất Đà Nẵng (nay là Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng) để quản lý thực hiện theo quy hoạch.
Ngày 11/4/2013, Ban GTĐB các dự án ĐTXD số 1 Đà Nẵng đã kiểm định nhà, đất và vật kiến trúc, cây cối hoa màu của hộ ông Phạm Ngọc Anh và tài sản của các hộ: Trần Văn Tám và Nguyễn Thị Bảy, Nguyễn Thị Min, Phạm Ngọc Hùng và Đỗ Thị Thùy Trọng, Phạm Ngọc Dũng và Nguyễn Thúy Hằng, Trương Anh và Lương Thị Hồng, Phạm Ngọc Cường, Phạm Thị Hường.
Ngày 02/12/2013, Chủ tịch UBND quận Ngũ Hành Sơn ban hành Quyết định số 2772/QĐ-UBND V/v phê duyệt mức bồi thường, hỗ trợ thiệt hại về nhà, đất cho các hộ thuộc diện giải tỏa Dự án này, trong đó hộ ông Phạm Ngọc Anh được giải quyết như sau:
Giấy tờ về nguồn gốc sử dụng đất:
- Giấy sang vườn của ông Nguyễn Hữu Lộc và bà Trần Thị Muộn cho bà Trần Thị Mai lập ngày 01/5/1990 nhưng không có xác nhận của chính quyền địa phương.
- GCN QSHN ở và QSDĐ ở tạm thời do Sở Địa chính - Nhà đất cấp ngày 15/02/2003, diện tích 907,5m2 (300m2 đất ở và 607,5m2 đất khuôn viên).
- Biên nhận do Hội đồng đăng ký phường Bắc Mỹ An (cũ) ghi ngày 12/7/1997, trong đó có nhận Đơn xin phép xây dựng nhà, Biên lai thuế nhà đất năm 1993 và năm 1994.
Trong quá trình sử dụng đất ông Phạm Ngọc Anh và bà Trần Thị Mai có làm các giấy tờ để bán, cho đất cho các hộ sau:
- Giấy ủy quyền cho ông Trần Văn Tám và bà Nguyễn Thị Bảy, diện tích 52m2 được UBND phường Khuê Mỹ xác nhận ngày 14/5/2007.
- Giấy ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Min, diện tích 65,25m2 được UBND phường Khuê Mỹ xác nhận ngày 14/5/2007.
- Đơn xin xác nhận có nhà ở (dùng cho đăng ký Hộ khẩu và tách Hộ khẩu), trong đó cho con là Phạm Ngọc Hùng, diện tích 75m2 được UBND phường Khuê Mỹ xác nhận ngày 17/10/2007.
- Đơn xin xác nhận có nhà ở (dùng cho đăng ký Hộ khẩu và tách Hộ khẩu), trong đó cho con là Phạm Ngọc Dũng, diện tích 72m2 được UBND phường Khuê Mỹ xác nhận ngày 17/10/2007.
- Đơn xin xác nhận có nhà ở (dùng cho đăng ký Hộ khẩu và tách Hộ khẩu), trong đó cho con là Phạm Ngọc Cường, diện tích 162m2 được UBND phường Khuê Mỹ xác nhận ngày 17/02/2011.
- Đơn xin nhượng đất cho ông Trương Anh và bà Lương Thị Hồng, diện tích 45,5m2 được UBND phường Bắc Mỹ An (cũ) xác nhận ngày 23/11/2003.
- Giấy cho đất cho con là Phạm Thị Hồng, diện tích 42m2 lập ngày 15/6/1998 nhưng không có xác nhận của chính quyền địa phương.
- Theo hồ sơ địa chính do UBND phường Khuê Mỹ quản lý là thửa 22, tờ bản đồ số 99, diện tích 907,5m2 đất thổ cư.
- Bản kê khai nguồn gốc nhà đất được UBND phường Khuê Mỹ xác nhận ngày 11/4/2013, nội dung: Nguồn gốc đất nhận chuyển nhượng một phần đất của ông Nguyễn Hữu Lộc và bà Trần Thị Muộn, sử dụng làm nhà ở trước ngày 15/10/1993.
- Hiện trạng có nhà ở.
Mức bồi thường, hỗ trợ như sau:
- Bồi thường 100% đất ở cho diện tích 119,9m2 (đơn giá 980.000đ/m2)
- Bồi thường đất khuôn viên bằng 50% giá đất ở cộng với giá đất trồng cây lâu năm hạng 1 đồng bằng thành đơn giá (515.000đ/m2) cho diện tích 605,4m2.
- Không bồi thường diện tích 258,3m2 do nằm ngoài GCN QSDĐ tạm thời.
- Bồi thường 100% nhà, vật kiến trúc cho các hộ theo Quyết định số 63/2012/QĐ-UBND ngày 20/12/2012 của UBND thành phố.
- Hỗ trợ 80% nhà, vật kiến trúc cho hộ ông Trần Văn Tám, Nguyễn Thị Min, Trương Anh.
- Bồi thường cây cối trên đất cho các hộ theo Quyết định số 63/2012/QĐ-UBND ngày 20/12/2012 của UBND thành phố.
Ngày 02/12/2013, Ban GTĐB các dự án ĐTXD số 1 Đà Nẵng lập Bảng tính giá trị đền bù cho hộ ông Phạm Ngọc Anh theo phê duyệt trên trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong đó đã trừ phần giá trị cây vượt mật độ số tiền 25.248.200đồng.
Ngày 26/4/2014, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 2687/QĐ-UBND V/v phê quyệt giải quyết bồi thường thiệt hại, hỗ trợ và bố trí đất tái định cư đối với các hộ thuộc diện giải tỏa Dự án này, trong đó hộ ông Phạm Ngọc Anh và các hộ có tài sản trên đất, cụ thể như sau:
- Bồi thường 100% giá đất ở cho diện tích 119,9m2.
- Bồi thường đất khuôn viên (bằng 50% giá đất ở cộng với giá đất trồng cây lâu năm hạng 1 đồng bằng) cho diện tích 605,4m2.
- Hỗ trợ 100% giá đất trồng cây hàng năm hạng 1 (đơn giá 50.000đ/m2) cho diện tích 258,3m2.
- Bồi thường 100% nhà, vật kiến trúc cho các hộ theo Quyết định số 63/2012/QĐ-UBND ngày 20/12/2012 của UBND thành phố.
- Bố trí 01 lô đất hộ chính và 07 lô đất hộ phụ đường 5,5m Khu dân cư phía Nam đường Bùi Tá Hán (Lưu ý: Khi chi tiền và đất tái định cư phải có giấy thỏa thuận giữa các hộ được UBND phường Khuê Mỹ xác nhận).
Tuy nhiên, Ông Phạm Ngọc Anh không đồng ý với kết quả giải quyết trên mà có đơn khiếu nại về bồi thường thiệt hại và bố trí tái định cư.
Tại Biên bản làm việc Thanh tra thành phố ngày 12/8/2014, ông Phạm Ngọc Anh trình bày: Nguồn gốc đất của ông mua năm 1990 không có xác nhận của UBND phường nhưng có làm nhà ở và nộp thuế nhà đất từ năm 1993 đến năm 2013, có GCN QSHN ở và QSDĐ ở tạm thời nhưng do ảnh hưởng quy hoạch và đất của ông có thay đổi do có nhiều ngôi nhà nên không làm được GCN QSHN ở và QSDĐ ở chính thức. Trong quá trình sử dụng đất vợ chồng ông có cho và bán cho một số hộ. Nay, UBND thành phố bồi thường toàn bộ đất cho ông và bố trí 07 lô đất tái định cư chung cho các hộ nên ông không đồng ý vì như vậy dễ dẫn đến tranh chấp, các hộ đã nhận chuyển nhượng đất của ông có diện tích không đồng đều. Ông yêu cầu bồi thường 300m2 theo giá đất ở, phần diện tích còn lại bồi thường theo giá đất khuôn viên, bồi thường đầy đủ cây cối hoa màu tại mục D của Bảng tính giá trị đền bù mà được không trừ phần cây vượt mật độ số tiền 25.248.200 đồng) và hỗ trợ di chuyển nhà ở, hỗ trợ đời sống, điện, nước với mức 100%.
Đến ngày 18/9/2015, UBND thành phố đã tổ chức đối thoại với ông Phạm Ngọc Anh. Tại buổi đối thoại, lãnh đạo UBND thành phố đã kết luận: Việc UBND thành phố phê duyệt mức bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và bố trí tái định cư đối với hộ ông Phạm Ngọc Anh là đúng quy định. Không chấp nhận đơn khiếu nại của ông Phạm Ngọc Anh và kết luận:
* Về khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại về đất:
Trường hợp sử dụng đất của hộ ông Phạm Ngọc Anh có nguồn gốc là do nhận chuyển nhượng bằng giấy viết tay, không có xác nhận của cơ quan chức năng, có GCN QSHN ở và QSDĐ ở tạm thời do Sở Địa chính - Nhà đất cấp ngày 15/02/2003, diện tích 907,5m2 trong đó 300m2 đất ở và 607,5m2 đất khuôn viên. Theo xác nhận của UBND phường Khuê Mỹ thì hộ ông Phạm Ngọc Anh sử dụng diện tích 907,5m2 theo GCN QSHN ở và QSDĐ ở tạm thời là trước 15/10/1993, phần diện tích còn lại 258,3m2 nằm ngoài GCN QSHN ở và QSDĐ ở tạm thời là hộ ông Phạm Ngọc Anh tự cơi nới, lấn chiếm sử dụng sau năm 2003 (sau thời điểm cấp GCN QSHN ở và QSDĐ ở tạm thời).
Trong quá trình sử dụng đất hộ ông Phạm Ngọc Anh có lập các giấy tờ để cho các con và bán cho một số hộ, nhưng đều diễn ra sau ngày 01/7/2004 (chỉ có trường hợp cho chị gái là bà Phạm Thị Hường vào năm 1998, nhưng không có xác nhận của cơ quan chức năng). Do đó, không có cơ sở để tách hồ sơ, bồi thường cho từng hộ.
Theo quy định tại Điểm o Khoản 2 Điều 5 và Điểm b Khoản 2 Điều 9 “Quy định về bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” ban hành kèm theo Quyết định số 63/2012/QĐ-UBND ngày 20/12/2012 của UBND thành phố Đà Nẵng thì việc giải quyết về bồi thường thiệt hại, hỗ trợ đối với hộ ông Phạm Ngọc Anh và các hộ có tài sản trên đất của hộ ông Phạm Ngọc Anh như trên là phù hợp với thực tế và đúng quy định.
Do vậy, việc ông Phạm Ngọc Anh khiếu nại yêu cầu bồi thường về đất cho từng hộ và yêu cầu bồi thường 300m2 theo giá đất ở, phần diện tích còn lại bồi thường theo giá đất khuôn viên là không có cơ sở để xem xét giải quyết.
* Về bố trí tái định cư: Theo thực tế sử dụng đất và nhà ở của hộ ông Phạm Ngọc Anh và các hộ có nhà trên đất của hộ ông Phạm Ngọc Anh, UBND thành phố đã bố trí 01 lô đất hộ chính và 07 lô đất hộ phụ đường 5,5m tại Khu dân cư phía Nam đường Bùi Tá Hán theo hướng hộ ông Phạm Ngọc Anh và các hộ có tài sản tự thỏa thuận phân chia là phù hợp với điều kiện thực tế của các hộ.
* Về bồi thường cây cối hoa màu:
Ngày 28/10/2014, Ban Giải tỏa đền bù các Dự án Đầu tư xây dựng số 1 đã tính bổ sung phần cây cối hoa màu cho hộ ông Phạm Ngọc Anh với số tiền 6.703.400đ. Như vậy, tổng số tiền bồi thường cây cối cho hộ ông Anh là 8.659.200đ. Do hộ ông Phạm Ngọc Anh trồng nhiều loại cây vượt mật độ nên việc tính bồi thường thiệt hại về cây cối hoa màu cho hộ ông Anh như trên là đúng quy định tại Khoản 4 và Khoản 5 Điều 32 Quyết định số 63/2012/QĐ-UBND ngày 20/12/2012 của UBND thành phố. Do vậy, việc ông Phạm Ngọc Anh yêu cầu bồi thường cho tất cả các loại cây theo đơn giá quy định (không trừ vượt mật độ) là không có cơ sở để xem xét giải quyết.
* Về hỗ trợ di chuyển:
Hộ ông Phạm Ngọc Anh bị thu hồi đất một phần. Theo quy định tại số thứ tự 11, Phụ lục số 1 ban hành kèm theo Quyết định số 63/2012/QĐ-UBND ngày 20/12/2012 của UBND thành phố thì trường hợp của ông Anh chỉ được giải quyết hỗ trợ với mức 50%. Do đó, việc ông Phạm Ngọc Anh yêu cầu giải quyết hỗ trợ di chuyển nhà ở, điện, nước với mức 100% là không có cơ sở xem xét giải quyết.
Từ những nhận định, căn cứ trên và theo đề nghị của Chánh Thanh tra thành phố, ngày 9/10/2015, UBND TP Đà Nẵng ban hành Quyết định số 7523/QĐ-UBND: Giữ nguyên các Quyết định phê duyệt giải quyết về bồi thường thiệt hại, hỗ trợ và bố trí đất tái định cư đối với hộ ông Phạm Ngọc Anh và các hộ có tài sản trên đất của hộ ông Phạm Ngọc Anh. Đồng thời, không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Ngọc Anh về việc bồi thường thiệt hại về đất và bố trí đất tái định cư riêng cho từng hộ, yêu cầu bồi thường 300m2 theo giá đất ở, phần diện tích còn lại bồi thường theo giá đất khuôn viên, yêu cầu bồi thường cho tất cả các loại cây theo đơn giá quy định (không trừ phần cây vượt mật độ) và yêu cầu giải quyết hỗ trợ di chuyển nhà ở, điện, nước với mức 100% đối với hộ ông.
Nếu không đồng ý với quyết định này, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, ông Phạm Ngọc Anh được quyền khiếu nại lần 2 đến Bộ trưởng Bộ TN&MT hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại TAND TP Đà Nẵng theo quy định của pháp luật.
Cổng Thông tin điện tử thành phố đăng tải Quyết định để ông Phạm Ngọc Anh được biết.
Cổng Thông tin điện tử thành phố