Phạm Đức Nam (1922-2004)
Tháng 4/1955, tập kết ra Bắc, được điều về công tác ở Ban Liên hiệp định chiến cùng với ông Hồ Nghinh, lúc bấy giờ ở tại thành phố Đà Nẵng (từ tháng 10/1955 đến tháng 9/1956). Từ cuối năm 1956 đến năm 1958, công tác ở Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Cuối năm 1958, trở về chiến trường miền Nam, tham gia trực tiếp cuộc kháng chiến chống Mỹ cho đến ngày Quảng Nam – Đà Nẵng được giải phóng (29/3/1975). Ông tham gia Tỉnh ủy Quảng Nam năm 1960, rồi Thường vụ Tỉnh ủy, Phó bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà. Phạm Đức Nam là một trong số cán bộ chủ chốt đã tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ trên chiến trường ác liệt nhất của miền Nam, được phân công phụ trách công tác tiền phương. Ông cũng là người đi chiếc xe đầu của đoàn xe 10 chiếc đưa đồng chí Võ Chí Công và Hồ Nghinh vào tiếp quản Đà Nẵng chiều ngày 29/3/1975 và chi viện cho đoàn quân tiến về Nam giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau ngày giải phóng, trên cương vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cách mạng Quảng Đà, Phó chủ tịch rồi Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, ông đã có nhiều cống hiến xuất sắc. Ông là một trong những người lãnh đạo của tỉnh đã có công tranh thủ sự đồng tình của Chính phủ về quyết định cho xây dựng công trình đại thủy nông Phú Ninh sau ngày toàn thắng và là người chỉ huy đốc chiến say sưa trên công trường này, và chỉ sau hơn hai năm đã hoàn tất hồ chứa 344 triệu mét khối nước đủ tưới cho 23.000 hecta diện tích, biến vùng đất khô cằn của nửa tỉnh phía nam từ một vụ lúa dựa vào nước trời, thành hai, ba vụ lúa/ năm. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Phạm Đức Nam là người dẫn đầu trong giải pháp thâm canh, tăng vụ, đưa lại những vụ mùa bội thu, được nông dân gọi ông bằng cái tên mới: “ông Phạm Xuân Hè”.
Phạm Đức Nam là một cán bộ lãnh đạo mẫu mực, chí công vô tư, giàu lòng thương yêu, quí trọng đối với đồng đội, đồng chí, đồng bào trong những lúc nguy nan, căng thẳng nhất, kề bên cái chết cũng như trong những giờ phút thư thả nhất. Trong thời chiến cũng như thời bình, ông sống chan hòa, lạc quan và đầy ắp nghĩa tình với mọi người. Ông mất ngày 12/3/2004 tại thành phố Đà Nẵng.
Cổng TTĐT thành phố
Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829)
Ông quê làng Bắc Mỹ An, huyện Diên Phước, trấn Quảng Nam, nay là phường Bắc Mỹ An, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tên thật là Nguyễn Văn Thụy, do kỵ húy mà đổi là Thoại. Thời niên thiếu, Nguyễn Văn Thoại cùng gia đình di cư vào Nam đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), sống tại làng Thới Bình, trên cù lao Dài, nay thuộc huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Niên biểu Phan Châu Trinh (1872-1924)
Một vài mẩu chuyện về cụ Huỳnh Thúc Kháng
Mối quan hệ giữa cụ Huỳnh Thúc Kháng với Bác Hồ
Có thể nói rằng từ lúc mới bước vào con đường cứu nước, cứu dân cho đến trước Cách mạng Tháng Tám-1945, cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn luôn theo đuổi chủ nghĩa dân quyền đi theo lối cách mạng công khai- và chỉ muốn dựa vào cải cách để đưa đất nước tiến lên, mà công việc trước mắt- theo cụ, là phải lo việc "vớt chìm chữa cháy" trong tình trạng đất nước "vàng đá hỗn hào!tai mắt lầm lạc". Dầu rằng trong khoảng thời gian ấy, càng về giai đoạn sau, nhất là sau khi báo Tiếng dân bị đóng cửa thì cụ càng thất vọng với đường lối mà mình đã đi.
Giới thiệu Danh nhân Quảng Nam Đà Nẵng
Từ năm 1306 là năm hai châu Ô và Lý (trong đó có một phần đất Quảng Nam ngày nay) được nhập vào bản đồ Đại Việt, Quảng Nam – Đà Nẵng bắt đầu giữ vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc.


Chưa có bình luận ý kiến bài viết!