Trần Văn Dư (1839 - 1885)

Trần Văn Dư còn có tên là Trần Dư, tự Hoán Nhược, sinh năm Kỷ Hợi (1839) tại làng An Mỹ Tây, huyện Hà Đông, nay là xã Tam An, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nho học.

Thời tuổi trẻ, rất hiếu học và thông minh. Năm 19 tuổi đỗ tú tài, 27 tuổi đỗ cử nhân (1868), 35 tuổi đỗ tiến sĩ khoa Ất Hợi (1875). Ban đầu được bổ làm Hành tẩu Viện Cơ mật, Thừa biện bộ Lại, rồi Tri phủ Ninh Giang (Hải Dương), Tri phủ Quảng Oai (Sơn Tây). Năm 1879, được thăng Hàn lâm viện thị độc sung chức giảng tập Dục đức đường, dạy hoàng tử Ung Chân (sau này là vua Dục Đức) và Ưng Kỵ (sau này là vua Đồng Khánh); rồi làm Án sát An Tịnh (Nghệ An - Hà Tĩnh), Biện lý bộ Lại, sung Thương bạc sự vụ, tước Hồng lô tự khanh.

Ông thuộc phái chủ chiến, chống lại đường lối đầu hàng của triều đình Nguyễn lúc bấy giờ. Năm 1884, được bổ Chánh sơn phòng sứ Quảng Nam. Việc đầu tiên của ông là tâu xin triều đình cho tu sửa sơn phòng, tích trữ muối, gạo để “củng cố thế lực phía Tả kỳ được mạnh lên”.

Triều đình Huế (Đồng Khánh đã được Pháp đưa lên ngôi vua) thấy việc cử Trần Văn Dư làm Sơn phòng sứ Quảng Nam là điều bất lợi cho xu thế “hợp tác” giữa Nam triều và Pháp, nên đã ra dụ hoán đổi ông vào làm Bố chánh Bình Thuận, và cử phó bảng Nguyễn Đình Tựu thay. Trần Văn Dư đã khước từ không nhận triều chỉ, tuy vậy ông vẫn bàn giao chức vụ theo chỉ dụ, rồi bỏ về không hợp tác với chính quyền mới.

Tháng 12-1885, quân Pháp và quân Nam triều bao vây tấn công sơn phòng Dương Yên, nghĩa quân bị tổn thất nặng nề. Trong hoàn cảnh khó khăn, Trần Văn Dư bàn giao quyền lãnh đạo Nghĩa hội lại cho Nguyễn Duy Hiệu, tự mình lên đường trở ra kinh để gặp vua Đồng Khánh, với tư cách của một tiến sĩ, một thầy cũ của vua (phụ đạo giảng tập) để thương lượng, nhằm tìm một giải pháp cứu vãn tình thế. Không ngờ trên đường ra Huế, khi vừa đến tỉnh thành La Qua, gặp tuần vũ Châu Đình Kế (nguyên trước cũng đứng trong hàng ngũ chống Pháp như ông, từng theo theo Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra Tân Sở) lúc này đã trở mặt, bắt giữ ông lại, xem ông như tướng giặc. Họ Trần đã tức khí mắng nhiếc Châu Đình Kế là cam tâm làm tay sai cho giặc. Kế không chịu thua, đã báo cho tên chỉ huy Pháp ở trong thành là đã bắt được tướng giặc lợi hại, nguy hiểm. Tên chỉ huy Pháp đã dùng quân luật thời chiến đem Trần Văn Dư bắn ngay ở góc tỉnh thành. Hôm ấy là ngày 13-12-1885.
Ghi nhận những đóng góp của ông, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã quyết định đặt tên một con đường mang tên Trần Văn Dư dài 200m, rộng 5m, từ đường 2 tháng 9 qua đường Tống Phước Phổ tới đường Núi Thành nối với đường Châu Thượng Văn vào khu tập thể Hòa Cường, quận Hải Châu.

Cổng TTĐT thành phố
 

Danh nhân

Chưa có bình luận ý kiến bài viết!

Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829)
Ông Ích Đường (1890-1908)
Lê Thị Dãnh (? - 1968)
Một vài mẩu chuyện về cụ Huỳnh Thúc Kháng
Niên biểu Phan Châu Trinh (1872-1924)
Giới thiệu Danh nhân Quảng Nam Đà Nẵng

Mối quan hệ giữa cụ Huỳnh Thúc Kháng với Bác Hồ

Có thể nói rằng từ lúc mới bước vào con đường cứu nước, cứu dân cho đến trước Cách mạng Tháng Tám-1945, cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn luôn theo đuổi chủ nghĩa dân quyền đi theo lối cách mạng công khai- và chỉ muốn dựa vào cải cách để đưa đất nước tiến lên, mà công việc trước mắt- theo cụ, là phải lo việc "vớt chìm chữa cháy" trong tình trạng đất nước "vàng đá hỗn hào!tai mắt lầm lạc". Dầu rằng trong khoảng thời gian ấy, càng về giai đoạn sau, nhất là sau khi báo Tiếng dân bị đóng cửa thì cụ càng thất vọng với đường lối mà mình đã đi.

Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829)

Ông quê làng Bắc Mỹ An, huyện Diên Phước, trấn Quảng Nam, nay là phường Bắc Mỹ An, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tên thật là Nguyễn Văn Thụy, do kỵ húy mà đổi là Thoại. Thời niên thiếu, Nguyễn Văn Thoại cùng gia đình di cư vào Nam đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), sống tại làng Thới Bình, trên cù lao Dài, nay thuộc huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Niên biểu Phan Châu Trinh (1872-1924)

Ông Ích Đường (1890-1908)

Ông sinh tại làng Phong Lệ, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc Phường Hoà Thọ, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng).Ông là cháu nội danh tướng Ông Ích Khiêm. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, thì Ông Ích Đường là người giỏi văn võ, có chí lớn, có tính phóng khoáng, có đức độ bậc trượng phu, thường binh vực kẻ nghèo yếu, chống lại bọn cường hào ác bá.

Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947)

Cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc nhỏ tên là Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh, hiệu Minh Viên, sinh tháng 10/1876 (Tự Đức 19) tại làng Thạnh Bình, tông Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, (nay là Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng trong một gia đình nông hào, gốc Nho học.

Xuất bản thông tin

Navigation Menu

Navigation Menu

LIÊN KẾT WEBSITE

Navigation Menu

Navigation Menu

Navigation Menu