Nguyễn Hiển Dĩnh (1853 - 1926)

Nguyễn Hiển Dĩnh sinh năm 1853 ở làng An Quán, nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn. Cha là Nguyễn Hiển Doãn, đỗ cử nhân, làm Tri huyện rồi bị bãi chức, về nhà dạy học. Năm 18 tuổi, Nguyễn Hiển Dĩnh đỗ tú tài, được bổ quyền Tri phủ Điện Bàn, sau đó đổi sang Tri huyện Hà Đông (nay là Tam Kỳ). Năm sau lại được đổi ra Huế, giữ chức Phủ thừa.

Ở kinh đô Huế lúc này nghệ thuật hát bội phát triển mạnh, nên ông có dịp tiếp xúc với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Đội Phước, Đội Sự. Sau đó, ông được bổ Bố chánh Thanh Hóa, rồi Tuần phủ Quảng Trị, Án sát Bình Định, Bố chánh Khánh Hòa. Tại đây, vì không vừa lòng với cách đối xử hách dịch của viên công sứ Pháp, ông xin về hưu trước tuổi. Tương truyền trong đơn gửi về triều đình, ông ghi rõ lý do xin về hưu có 8 chữ “Tòng sự nhật cửu, thỉnh hứa hồi hưu” (Làm việc đã lâu, xin được về nghỉ). riều đình thấy thái độ ngạo mạn của ông, đã phê ngay vào đơn 5 chữ “Đái nguyên hàm hồi quán”. Ông về hưu năm 1907.

Về quê, ông dốc toàn lực vào hoạt động sân khấu. Năm 1913, ông lập một rạp hát tại An Quán tương đối quy mô, quy tụ nhiều diễn viên giỏi, hàng đêm biểu diễn có bán vé. Số diễn viên từ Bình Định, Quảng Ngãi, Huế cũng thường đến diễn ở đây. Về sau, ông giao rạp hát này cho Chánh Đệ quản lý, tập trung vào việc soạn tuồng mới và dạy diễn viên nâng cao tay nghề.

Nguyễn Hiển Dĩnh đã sáng tác hàng chục vở tuồng về đề tài bi hùng và cả tuồng hài. Trong lịch sử hát bội Việt Nam, cùng với Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh là người có công lớn. Ông vừa là tác giả của nhiều vở tuồng nổi tiếng, vừa là một đạo diễn xuất sắc, một người tổ chức hoạt động sân khấu nhiệt thành. Ông còn góp phần đào tạo nhiều lớp diễn viên, trong đó có nhiều người nổi tiếng.
Ông mất tại quê nhà năm 1926.

Những vở tuồng tiêu biểu của ông: Sơn Hậu, Dương Chấn Tử, Tam nữ đồ vương, Võ Hùng vương, Tứ quốc lai vương, Phong Ba Đình, Trương Đồ Nhục… Nhà hát tuồng của thành phố Đà Nẵng mang tên Nguyễn Hiển Dĩnh.

Cổng TTĐT thành phố
 

Danh nhân

Chưa có bình luận ý kiến bài viết!

Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829)

Ông quê làng Bắc Mỹ An, huyện Diên Phước, trấn Quảng Nam, nay là phường Bắc Mỹ An, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tên thật là Nguyễn Văn Thụy, do kỵ húy mà đổi là Thoại. Thời niên thiếu, Nguyễn Văn Thoại cùng gia đình di cư vào Nam đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), sống tại làng Thới Bình, trên cù lao Dài, nay thuộc huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Niên biểu Phan Châu Trinh (1872-1924)

Một vài mẩu chuyện về cụ Huỳnh Thúc Kháng

Mối quan hệ giữa cụ Huỳnh Thúc Kháng với Bác Hồ

Có thể nói rằng từ lúc mới bước vào con đường cứu nước, cứu dân cho đến trước Cách mạng Tháng Tám-1945, cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn luôn theo đuổi chủ nghĩa dân quyền đi theo lối cách mạng công khai- và chỉ muốn dựa vào cải cách để đưa đất nước tiến lên, mà công việc trước mắt- theo cụ, là phải lo việc "vớt chìm chữa cháy" trong tình trạng đất nước "vàng đá hỗn hào!tai mắt lầm lạc". Dầu rằng trong khoảng thời gian ấy, càng về giai đoạn sau, nhất là sau khi báo Tiếng dân bị đóng cửa thì cụ càng thất vọng với đường lối mà mình đã đi.

Giới thiệu Danh nhân Quảng Nam Đà Nẵng

Từ năm 1306 là năm hai châu Ô và Lý (trong đó có một phần đất Quảng Nam ngày nay) được nhập vào bản đồ Đại Việt, Quảng Nam – Đà Nẵng bắt đầu giữ vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc.

Xuất bản thông tin

Navigation Menu

Navigation Menu

LIÊN KẾT WEBSITE

Navigation Menu

Navigation Menu

Navigation Menu