Nhìn chung các dòng sông chảy qua Đà Nẵng đều mang các đặc tính của vùng duyên hải miền Trung, độ dài ngắn, độ dốc lớn, dao động mực nước và lưu lượng nước đều lớn, nghèo phù sa. Mùa mưa, nước sông lên cao nhanh gây lũ lụt cho vùng hạ lưu nhưng thời gian lũ ngắn chỉ kéo dài trong một vài ngày. Mùa khô nguồn sinh thủy thu hẹp, mực nước sông xuống thấp gây mặn cho toàn vùng hạ lưu sông, thời gian mặn kéo dài khoảng 1 tháng. Biển Đà Nẵng chịu chế độ bán nhật triều mỗi ngày lên xuống 2 lần, biên độ dao động khoảng 0,6m.
Theo thống kê năm 2019 tại Trạm Hải Vân Sơn Trà, mực nước trung bình năm của thành phố đạt -7 cm. Trong đó, mực nước cao nhất năm đạt 81 cm; mực nước thấp nhất năm là cm. Cụ thể như sau:
Đặc trưng |
I |
II |
III |
IV |
V |
VI |
VII |
VIII |
IX |
X |
XI |
XII |
Năm |
Trung bình |
5 |
-15 |
-11 |
-16 |
-11 |
-21 |
-21 |
-17 |
0 |
6 |
18 |
2 |
-7 |
Max |
62 |
37 |
31 |
25 |
46 |
28 |
41 |
60 |
55 |
81 |
70 |
57 |
81 |
Min |
-58 |
-73 |
-63 |
-68 |
-71 |
-81 |
-79 |
-79 |
-54 |
-56 |
-51 |
-65 |
-81 |
Bảng: Mực nước trung bình, cao nhất, thấp nhất Trạm Hải Vân Sơn Trà (2019) (Đơn vị: cm)
Tại Trạm thủy văn Cẩm Lệ, theo thống kê năm 2019, mực nước trung bình năm đạt -2 cm. Trong đó, mực nước cao nhất năm đạt 101 cm; mực nước thấp nhất năm là -76 cm. Cụ thể như sau:
Đặc trưng |
I |
II |
III |
IV |
V |
VI |
VII |
VIII |
IX |
X |
XI |
XII |
Năm |
Trung bình |
19 |
-1 |
1 |
-3 |
3 |
-8 |
-8 |
-4 |
13 |
20 |
34 |
15 |
-2 |
Max |
77 |
53 |
48 |
43 |
63 |
47 |
51 |
70 |
69 |
99 |
101 |
81 |
101 |
Min |
-46 |
-62 |
-51 |
-57 |
-76 |
-71 |
-74 |
-76 |
-46 |
-44 |
-39 |
-57 |
-76 |
Bảng: Mực nước trung bình, cao nhất, thấp nhất Trạm thủy văn Cẩm Lệ (2019) (Đơn vị: cm)
Bản đồ thủy văn thành phố Đà Nẵng
* Các con sông tại Đà Nẵng:
- Sông Hàn là hợp lưu của sông Cẩm Lệ và sông Vĩnh Điện, mực nước cao nhất: +3,45m (1964), mực nước thấp nhất: +0,25m.
- Sông Cu Đê là hợp lưu của 3 con sông: sông Nam, sông Bắc và sông Trường Định, bắt nguồn phía Tây Nam đèo Hải Vân. mực nước cao nhất: +4m, mực nước thấp nhất: +0.3m.
- Sông Túy Loan: gồm 2 nhánh, một nhánh bắt nguồn từ núi Bà Nà, nhánh còn lại bắt nguồn từ huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam có tên là sông Luông Đông.
Nhìn chung các dòng sông chảy qua Đà Nẵng đều mang các đặc tính của vùng duyên hải miền Trung, độ dài ngắn, độ dốc lớn, dao động mực nước và lưu lượng nước đều lớn, nghèo phù sa. Mùa mưa, nước sông lên cao nhanh gây lũ lụt cho vùng hạ lưu nhưng thời gian lũ ngắn chỉ kéo dài trong một vài ngày. Mùa khô nguồn sinh thủy thu hẹp, mực nước sông xuống thấp gây mặn cho toàn vùng hạ lưu sông, thời gian mặn kéo dài khoảng 1 tháng.
- Biển Đà Nẵng chịu chế độ bán nhật triều mỗi ngày lên xuống 2 lần, biên độ dao động khoảng 0,6m.
Tình hình nhiễm mặn tùy theo mùa và khu vực: Mùa khô (2018) nước biển vào sông Hàn dâng lên ngã ba sông Cẩm Lệ làm nhiễm mặn nguồn nước cấp cho nhà máy nước Cầu Đỏ kéo dài đến gần 2 tháng, cũng trong mùa khô có năm nước biển xâm nhập vào sâu trong đất liền đến 1km làm nhiễm mặn các giếng nước ăn vùng dân cư ven biển.
CỔNG TTĐTTP TỔNG HỢP
(THAM KHẢO TỪ BAN THUYẾT MINH ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH CHUNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045; NIÊN GIÁM THỐNG KÊ: 2018 - 2019)