23 tuổi đỗ cử nhân (thủ khoa trên 38 vị) năm Thiệu Trị thứ hai (1842); 24 tuổi đỗ đầu bảng Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mão (1843). Đọc tiểu sử và hành trạng của ông, ta thấy ông đã từng giữ chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua); Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Hộ (Tài chính) đồng thời sung Cơ mật viện đại thần; thương thuyết gia (Phó sứ cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản trong phái bộ sang Pháp và Tây Ban Nha xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1863-1864); một doanh điền sứ, một nhà hoạch định chiến lược (tổ chức khẩn hoang hai huyện Nam Sách, Đông Triều), mở cảng chiêu thương Hải Phòng, biến “một dải sông Cấm thuyền xe tụ họp đông đúc thành ra nơi lạc thổ”(1).
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 4, Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr. 229.
(2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Sđd, tr. 225-226.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Sđd, tr. 225-226.
(4) Dẫn theo Quang Uyển, bản dịch Nhật ký đi Tây, Nxb. Đà Nẵng, 1999, tr. 41.